00:18 EDT Thứ sáu, 19/04/2024

Menu

THỐNG KÊ TRUY CẬP

Đang truy cậpĐang truy cập : 1123

Máy chủ tìm kiếm : 30

Khách viếng thăm : 1093


Hôm nayHôm nay : 37502

Tháng hiện tạiTháng hiện tại : 2978781

Tổng lượt truy cậpTổng lượt truy cập : 55132670

Trang nhất » TIN TỨC » TIN TRONG NGÀNH » NGƯỜI TỐT VIỆC TỐT

CAND

Ký ức của người chiến sĩ Công an từng bảo vệ kho bạc ngày giải phóng

Chủ nhật - 03/05/2020 20:58


Đoàn quân “cọp xanh”

18 tuổi, Đặng Tài Ô là một trong số ít thanh niên của tỉnh Bắc Ninh được tuyển chọn vào lực lượng CAND vũ trang. Sau thời gian học tập, huấn luyện, ông được tăng cường cho Công an tỉnh Hà Tĩnh. Ngày đó, những người lính như ông đều mang trong mình khí thế của tuổi trẻ, hăm hở lên đường ra tiền tuyến.

Mặt trận Hà Tĩnh giai đoạn 1972 - 1973 được ví như “chảo lửa” bom đạn. Những trận giội bom của địch xuống Đèo Ngang, Ngã ba Đồng Lộc luôn khốc liệt, tang thương. Tiểu đội của Đặng Tài Ô được lệnh bám trụ tại “vựa bom” cùng dân quân du kích, bộ đội địa phương Hà Tĩnh.

Mùa xuân năm 1975 là ký ức không bao giờ quên trong cuộc đời Đại tá Đặng Tài Ô.

Ngày nào đạn pháo cũng bắn xối xả từ biển vào, trên trời thì máy bay ném bom quần thảo, gầm rú. Đặng Tài Ô không bao giờ quên được hình ảnh những o du kích xứ Nghệ kiên cường, quả cảm, hiến dâng máu thịt của mình để bảo vệ mỗi tấc đất quê hương.

Vì quá thân thương với nhân dân mà Đặng Tài Ô đã được CAND vũ trang Hà Tĩnh xin về. Bộ Công an đồng ý, ông chính thức trở thành một thành viên của B17 (Đoàn Hà Tĩnh). Mùa xuân năm 1973, Đặng Tài Ô tranh thủ về quê cưới vợ theo sự sắp đặt của bố mẹ. Ngày cưới cũng là ngày đầu tiên cô dâu và chú rể biết mặt nhau. Ông chỉ ở nhà với vợ được đúng 3 ngày.

Cuối năm 1974, tại Tiểu đoàn 15 CAND vũ trang đóng ở Chương Mỹ, Hà Tây (nay là Hà Nội), 9 đoàn cán bộ chi viện cho miền Nam được lệnh xuất phát. Đặng Tài Ô thuộc biên chế của Đoàn Hà Tĩnh (C.282Q) bao gồm 34 cán bộ, chiến sĩ. Họ được tình báo Mỹ gọi là “cọp xanh”, một lực lượng vũ trang tinh nhuệ.

Những chiếc xe Zin chạy thần tốc trên cung đường Trường Sơn, chẳng mấy chốc đã đến bờ sông Bến Hải. Kia là cầu Hiền Lương, bắc ngang vĩ tuyến 17, nơi tạm thời chia cắt đất nước thành hai miền. Ngay bờ sông, có một cổng chào thật to với dòng chữ “Đất nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một”, không ai bảo ai, những người lính trong đoàn quân giải phóng miền Nam thấy cảm xúc dâng trào.

Con đường vào miền Nam khi đó đầy rẫy hiểm nguy, mỗi tấc đất đều bị bom đạn cày xới. Một gốc cây, ngọn cỏ đều nhuộm máu người. Phó đoàn C.282Q Hoàng Minh Duyệt đã diễn tả sự gian khổ, khó nhọc, hiểm nguy của hành trình vào Nam bằng những câu thơ:

“Đường Trường Sơn

Đường dốc quanh co

Những cái “ổ gà” to hơn hố pháo

Bọn chúng tôi ngã nhào

năm bảy lượt trên xe

Có đoạn qua khe, đoạn vượt dốc

Lính trẻ lăn lóc cười xòa

Xe vẫn nối đoàn,

bụi mịt mù trong nắng

Chiếc khẩu trang,

ngày ra đi em tặng

Màu trắng tinh khôi,

chuyển màu vàng,

sang màu đất xạm...”.

Hơn 2 tháng hành quân vào Nam, đoàn “cọp xanh” có mặt tại trạm C1 - Ban Kinh Tài R (thuộc Trung ương Cục miền Nam đóng tại Tây Ninh). Trong thời gian chờ lệnh tiến về Sài Gòn, đoàn hằng ngày tập luyện, thể thao, văn nghệ nâng cao tinh thần chiến đấu.

Những đêm trăng sáng xuyên qua khe lá giữa rừng già, trăng tròn vành vạnh in xuống mặt nước đọng trên hố bom, Đặng Tài Ô nhớ đến người vợ phương Bắc. Ngày chia tay, vợ khóc thật nhiều, chỉ mong cho miền Nam được giải phóng để gia đình đoàn tụ.

Bảo vệ tài sản Quốc gia

Sáng 30/4/1975, từ Trung ương Cục miền Nam (Tây Ninh), Đoàn C.282Q nhận lệnh tiến quân về Sài Gòn. Từ Tây Ninh, Đoàn đi theo hướng Hậu Nghĩa (Long An) qua căn cứ Đồng Dù, là hậu cứ của Sở Chỉ huy Sư đoàn bộ binh Mỹ số 25 nằm trên quốc lộ 1 (cách Sài Gòn 30km về phía Tây Bắc). Ðịch xây dựng nơi đây thành một căn cứ lớn để khống chế các tỉnh Hậu Nghĩa, Tây Ninh, tạo thành một tấm lá chắn bảo vệ phía Tây Bắc Sài Gòn.

Đại tá Đặng Tài Ô và Thủ trưởng cũ Hoàng Minh Duyệt vẫn thường xuyên gặp nhau trong những dịp đặc biệt.

Khi tới Ngã tư Bảy Hiền được chứng kiến những chiếc máy bay, trực thăng bốc cháy ngùn ngụt trên phi trường Tân Sơn Nhất, đoàn quân giải phóng như được tiếp thêm lửa, hừng hực khí thế tiến công. Hai bên đường vào trung tâm thành phố, từng dòng người đổ ra cổ vũ, hò reo, vui sướng vẫy tay chào mừng bộ đội giải phóng. Đặng Tài Ô, Hoàng Minh Duyệt, những người chỉ huy “đạp lên cái chết” vào thời khắc thống nhất Nam - Bắc, họ ôm nhau trào nước mắt.

Sáng 1/5/1975, Đoàn C.282Q được giao nhiệm vụ tiếp quản hệ thống ngân hàng và kho bạc của chế độ cũ. Những ngày đó, mừng vui không tả nổi, vinh dự đến chảy nước mắt vì được cấp trên tin tưởng giao cho trọng trách rất nặng nề và phức tạp. Đó là kho vàng, kho bạc với những thỏi vàng nặng trịch, óng ánh và những hộp tiền còn nguyên đai nguyên kiện. Một khối tài sản khổng lồ được đặt lên vai 34 người lính “cọp xanh”. Họ phải tiếp nhận và bảo vệ an toàn tuyệt đối.

Tiểu đội trưởng Đặng Tài Ô được phân công chỉ huy tiếp quản 3 ngân hàng: Vườn Chuối, Đa Kao và Phú Nhuận. Một bên là tiền vàng, một bên là cán bộ, nhân viên làm việc cho chế độ cũ đòi hỏi cán bộ tiếp quản phải khéo léo ứng xử, nhạy bén hành động. Buổi đêm là thời điểm khó khăn nhất, lực lượng bảo vệ rất mỏng, mỗi ngân hàng chỉ có một chiến sĩ canh gác.

Họ tập trung cao độ, đói không dám ăn, mệt không dám nghỉ. Sau khi bàn giao ngân hàng cho đơn vị khác, Tiểu đội của Đặng Tài Ô tiếp tục được giao nhiệm vụ bảo vệ Căn cứ kho vận Thủ Đức. Đây là kho lương thực, thực phẩm khổng lồ, có thể nuôi sống toàn bộ lính Mỹ -ngụy ở Sài Gòn trong vòng 3 năm. Dưới sự chỉ huy của Đặng Tài Ô, trong suốt thời gian tiếp quản, kho vận không mất một cân đường, hộp sữa.

Kể lại những câu chuyện của 45 năm về trước, Đại tá Đặng Tài Ô ngập tràn niềm vui sướng. Ông luôn tự hào vì đã sống đúng lý tưởng cách mạng. Ông bảo rằng, ngày ấy, nếu như muốn lấy một ít vàng, tiền hoặc bất cứ thứ gì đều có thể làm được và không bị ai phát hiện, nhưng ông chưa bao giờ có suy nghĩ thấp hèn như thế. Đồng đội của ông, những con người chân chất, áo vải, sống giữa hào quang vật chất cũng chẳng hề tơ hào, vương vấn.

Sau giải phóng, Đoàn C.282Q giải thể, Đặng Tài Ô được điều về Trại giam Chí Hòa, sau đó về Trại Thủ Đức (Z30D, Bình Thuận). Với bản chất người lính Cụ Hồ, được tôi rèn qua lửa đạn chiến tranh, Đặng Tài Ô có công rất lớn trong việc khai phá, mở mang Trại giam Thủ Đức.
Năm 1978, ông được phân công về Trường Trung cấp CSND 2, nay là Cao đẳng CSND 2, đóng tại Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh, giữ nhiệm vụ Trưởng phòng Quản lý học sinh, Chủ nhiệm Bộ môn Quân sự Võ thuật, Thể dục Thể thao. Năm 2008, ông nghỉ hưu với quân hàm Đại tá.
“Về đời thường, những tưởng được nghỉ ngơi, ai dè bà con tín nhiệm, “bắt” tôi “thổi tù và”, lo những việc “tối lửa tắt đèn” của khu phố gần cả chục năm nay. Thôi thì còn góp sức làm được gì cho nhân dân nhờ thì mình làm” - Bí thư Chi bộ, Phó Chủ tịch Hội Cựu chiến binh quận Thủ Đức Đặng Tài Ô bộc bạch.

Tác giả bài viết: Ngọc Thiện

Nguồn tin: cand.com.vn

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

Những tin mới hơn

Những tin cũ hơn

 

GIỚI THIỆU

GIỚI THIỆU TỈNH ĐIỆN BIÊN

Tổng quan về Điện Biên Thành phố Điện Biên Phủ. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN - XÃ HỘI 1. Diện tích tỉnh Điện Biên:  Diện tích tự nhiên: 9.541,25 km2 . 2. Vị trí địa lý Điện Biên là một tỉnh biên giới miền núi thuộc vùng Tây Bắc của Tổ quốc, có tọa độ địa lý 20o54’ – 22o33’ vĩ độ...

WEBSITE LIÊN KẾT

 

THỦ TỤC HÀNH CHÍNH

Tiếp nhận phản ánh
vi phạm quy định về pccc
Công khai  kế hoạch tuần tra, kiểm soát, xử lý vi phạm
Bộ Thủ Tục Hành Chính
TIÊU CHUẨN ISO 9001:2015
ĐĂNG KÝ - QL CƯ TRÚ
GAMES
thủ tục khắc dấu
HƯỚNG DẪN XNC
bien so xe
van ban qppl
ĐỐI TƯỢNG TRUY NÃ
hom thu
chuyên mục hỏi đáp