Cuộc đào tẩu ngoạn mục của con trai Sa hoàng


Bức thư gửi giám đốc FBI

Tháng 4 năm 1958, Đại sứ Mỹ tại Thụy Sĩ là Taylor nhận được một lá thư từ Zurich. Taylor mở bức thư và chuyển ngay cho người đứng đầu CIA ở Bern. Đây là bức thư gì?

Nhân viên CIA (Cục tình báo trung ương) phát hiện có một phong bì trong bức thư gửi cho ông Taylor nhưng người nhận lại là ông Edgar Hoover, giám đốc FBI. (Cục điều tra liên bang). Bức thư được đánh máy bằng máy đánh chữ Đức và chỉ có vài dòng: “Tôi sẵn sàng cung cấp những thông tin có giá trị về hoạt động gián điệp của Đảng cộng sản ở phương Đông. Nếu cần, xin hãy đăng nó trong chuyên mục “Nhân vật” của tờ “Nhật báo Frankfurter” một thông báo là đã nhận được bức thư. Cuối bức thư ký tên “Snipper”.

Snipper muốn nói chuyện với Hoover, Giám đốc CIA đành phải thông báo với Hoover về bức thư. Hoover đã rất tức giận khi biết rằng CIA đã mở thư riêng của mình. Ông chỉ trích CIA đã đối xử với FBI như thế nhưng cuối cùng ông đã đồng ý để CIA xử lý vụ việc với điều kiện tất cả thông tin bí mật mà Sniper cung cấp phải được báo cáo cho FBI biết.

Gia đình Sa hoàng Nga Nicholas II.

Một quan chức CIA nói tiếng Đức được lệnh xem xét lá thư của Snipper để xác định quốc tịch và danh tính của người viết. Quan chức nói tiếng Đức đã báo cáo với CIA: “Từ cách viết trong bức thư, từ ngữ được sử dụng đều là cú pháp tiếng Ba Lan, dựa trên điều này có thể suy ra rằng anh ta không phải là người Đức bản địa và người nói chuyện với chúng ta là người Ba Lan”. CIA phân tích dấu vết mực trên máy đánh chữ và giấy viết thư mà Snipper sử dụng và khẳng định đó là sản phẩm của Đông Âu. Snipper là ai? Ngay lúc nay CIA cũng không thể biết được.

CIA đã đăng một thông báo nhỏ trong chuyên mục “Nhân vật” của tờ “Nhật báo Frankfurter” để thông báo cho Snipper biết rằng bức thư đã nhận được. Từ đó, liên lạc giữa Snipper với CIA bắt đầu. Thời gian đầu sự giao tiếp với nhau mất nhiều thời gian, dần dần Snipper ngày càng trở nên can đảm và các bức thư đến thường xuyên hơn. Trong vài tháng CIA đã nhận được 14 bức thư của Snipper.

CIA quyết định tăng cường mối quan hệ với Snipper. CIA đã đăng một thông báo khác trên tờ “Nhật báo Frankfurter” và cung cấp cho Snipper hai hộp thư liên lạc. Hộp thư thứ nhất là ở Tây Berlin, hộp thứ hai ở một nhà tắm công cộng quận Tiergarten của Tây Berlin. Bằng cách này, Snipper có thể vừa gửi thư đến các hộp thư và nhận được hướng dẫn cách viết mật mã tình báo. Snipper cũng được CIA cho biết vài số máy điện thoại để sử dụng trong trường hợp khẩn cấp.

Những bức thư của Snipper được bộ phận tình báo của CIA ở Berlin đọc và chụp ảnh sau đó được đưa về Washington để phân tích và trả lời.

Chạy trốn đến Hợp chủng quốc Hoa Kỳ

Sau khi ẩn thân như một điệp viên hai mang trong hai năm rưỡi, cuối cùng vào đầu mùa đông năm 1960 Snipper đã đào tẩu sang Hoa Kỳ. Thời gian đó, KGB đã phát hiện ra có người làm điệp viên hai mang cho CIA và đề nghị Snipper hợp tác tìm kiếm, điều này làm cho ông ta phải cảnh giác rằng chắc chắn có “gián điệp” của KGB cài vào CIA, bí mật này đã được người trong cuộc báo cáo.

Gorenevsky.

Snipper thấy mối nguy hiểm nên phải hành động ngay lập tức. Ngày Giáng sinh năm 1960, Sniper cùng vợ xuất hiện tại phái bộ quân sự Hoa Kỳ ở Tây Berlin và xác nhận rằng mình là Mikhail Gorenevsky, phó giám đốc Cục tình báo quân sự Ba Lan, đồng thời là một điệp viên Liên Xô; ông ta đã báo cáo với KGB bất cứ điều gì mà các đồng nghiệp Ba Lan của anh ta cố gắng che giấu những người bạn Liên Xô.

Trong thời gian trước khi bỏ trốn khỏi Warsaw, Gorenevsky đã giấu hàng trăm tài liệu được chụp ảnh trong một cái hốc cây lớn mà anh ta đi ngang qua mỗi đêm khi đi làm về. Anh ta chọn ngày đào tẩu là ngày đầu tiên của kỳ nghỉ lễ Giáng sinh để trước khi bị phía bên kia phát hiện anh ta mất tích và truy nã thì đã muộn, đồng thời để CIA có đủ thời gian thông báo cho người của họ ở Warsaw đến lấy tài liệu mật từ trong hốc cây.

Các nhân viên CIA phát hiện Gorenevsky đã giấu hơn 300 cuộn phim tài liệu được chụp bởi máy quay siêu nhỏ Minox trong đó có cả danh sách nhân viên tình báo và sơ đồ tổ chức. Các quan chức cấp cao của CIA gọi Gorenevsky là “Kẻ đào tẩu tốt nhất mà Hoa Kỳ có được”.

Sa hoàng Nga Nicholas II.

“Tôi là con trai của Đại công tước Alexei Nikolayevich Romanov, Sa hoàng cuối cùng của Nga, Nicholas II”.

Ngay khi đến Mỹ, Gorenevsky đã tiết lộ danh tính thật của mình cho các quan chức CIA. Ông ta cũng nói với các quan chức CIA về việc thay đổi tên và họ của mình sau khi đến Ba Lan và trà trộn vào các cơ quan tình báo Ba Lan. Gorenevsky đã yêu cầu CIA giúp ông ta lấy lại tài sản bị mất của vị Hoàng đế ở Nga. Vì vấn đề này, CIA không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cắt đứt liên lạc với Gorenevsky vào năm 1964.

Bắt được “Chuột Chũi”

Trong thư gửi CIA, Snipper đề cập rằng KGB đã phát triển một điệp viên ở Ba Lan để thâm nhập vào Bộ Hải quân Anh. Theo thông tin tình báo của Snipper, người Anh đã tìm thấy Harry Horton, người từng làm việc ở Warsaw hiện đang làm thư ký tại căn cứ hải quân Portland. Tháng 6 năm 1960, các đặc vụ do Cơ quan cảnh sát London phái tới đã phát hiện ra Horton và bạn gái Ethel Gee đã giao một gói hàng cho một người đàn ông tên là Gordon Lance trước Nhà hát Old Vic trên đường Waterloo ở London.

Trụ sở CIA tại Langley, Virginia.

Snipper cũng ám chỉ rằng Liên Xô đã có được danh sách 26 mục tiêu mà MI-6 của Anh dự định tuyển mộ ở Ba Lan. Một nhà nghiên cứu phân tích từ phòng Đông Âu của CIA phát hiện ra rằng cơ quan tình báo Anh đã thú nhận với Hoa Kỳ một năm trước với cùng một danh sách, điều này khẳng định tính chính xác của thông tin do Snipper cung cấp.

Trong một báo cáo khác, Snipper tuyên bố rằng hai trong số các quan chức của cơ quan tình báo Tây Đức đã đến thăm CIA năm 1956 thì một là “Chuột Chũi” của KGB.

Sau khi Golenevsky đến Hoa Kỳ, các thẩm vấn viên của Anh cũng vội vã tới Hoa Kỳ họ muốn điều tra thêm về cách Liên Xô có được danh sách các điệp viên mà MI-6 của Anh đã tuyển dụng ở Ba Lan. Gorenevsky khẳng định rằng danh sách này không bị đánh cắp như MI-6 nghĩ mà do một điệp viên ở Berlin giao cho Liên Xô. MI-6 của Anh đã tìm kiếm thông qua các trung tâm đăng ký và điệp viên hai mang của Liên Xô là George Black được cài trong MI-6 của Anh đã bị lộ diện.

Thông tin tình báo của Gorenevsky cũng dẫn đến việc vạch mặt điệp viên hai mang Liên Xô là Fairfer. Fairfer là phó cơ quan phản gián Tây Đức, thông qua việc giám sát chặt chẽ anh ta, một nhóm điệp viên hai mang gồm Hans Clemens, người đứng đầu công tác trinh sát ở Bon cũng bị bắt.

Năm 1954, một người Liên Xô đào tẩu tên là Peter Jeriabin cảnh báo rằng có hai điệp viên KGB dưới bí danh Peter và Paul trong Cơ quan tình báo Tây Đức. Năm 1957, CIA đã tiến hành phân tích an ninh của Cơ quan tình báo Tây Đức và phát hiện ra rằng Fairfer, người chịu trách nhiệm về các hoạt động phản gián chống lại Liên Xô có thể là một điệp viên thâm nhập. Trong hai năm tiếp theo, mối nghi ngờ đối với anh ta tiếp tục không suy giảm cho đến khi anh ta nhận được thư của Gorenevsky. Trong bức thư đầu tiên, Gorenevsky cảnh báo rằng Liên Xô đang chuyển cho Ba Lan một bản tóm tắt báo cáo tình báo Tây Đức.

Tin tức bí mật này củng cố thêm sự nghi ngờ của CIA đối với Fairfer. Gorenevsky đã cung cấp một số thông tin cụ thể trong một bức thư sau đó. Gorenevsky báo cáo rằng ông ta đã nghe lãnh đạo cơ quan phản gián KGB nói rằng vào năm 1956, sáu quan chức Cơ quan tình báo Tây Đức được CIA chi trả chi phí khi đến thăm Hoa Kỳ. Trong số sáu người, có hai người là điệp viên Liên Xô. Sau khi tham khảo tài liệu lưu trữ, người ta nhanh chóng tìm ra danh sách 6 sĩ quan tình báo liên bang Tây Đức từng là “khách mời của” của CIA năm 1956, một trong số đó là Rainz Fairfer.

Thông qua việc nghe lén điện thoại của Fairfer, người ta thấy anh ta đã thực hiện nhiều cuộc điện thoại với Hans Clemens, đội trưởng đội giám sát của Cơ quan tình báo Tây Đức ở Bon. Khi giám sát Clemens thấy rằng anh ta có thể là một nhân viên giao thông cho mạng lưới gián điệp của Liên Xô vì luôn có những sự trùng hợp kỳ lạ giữa hành động của anh ta và những cuộc phát thanh mật của Liên Xô.

Vào một ngày thứ sáu của tháng 9 năm 1961, Clemens gọi điện cho Fairfer và phàn nàn rằng không thể giải mã được một bức điện. Fairfer yêu cầu Clemens gửi cho anh ta bức điện bằng thư bảo đảm. Nhân viên an ninh Đức chặn bức thư và tìm thấy một mảnh giấy có chỉ dẫn của sĩ quan đặc nhiệm Liên Xô được viết bằng mật mã; phong bì đã được đóng lại và gửi đến Fairfer vào sáng thứ hai, ngay đêm hôm đó, Fairfer bị bắt với lá thư vẫn còn nguyên trong túi áo.

Con trai của Sa hoàng, Gorenevsky có thể thâm nhập vào các cơ quan tình báo của Ba Lan trong nhiều năm sau đó ông ta đề nghị làm gián điệp cho Hoa Kỳ và đã gửi một lượng lớn tin tức tình báo mà phương Tây không có được rồi trốn sang Hoa Kỳ. Điều này chứng minh cơ quan tình báo Ba Lan dùng người không kiểm tra kỹ đã làm cho những con “Chuột Chũi” của Liên Xô được cài sâu vào phương Tây bị bại lộ và không có gì lạ khi người Mỹ đã tự hào gọi Golenevsky là “Kẻ đào tẩu tốt nhất mà Hoa Kỳ có được”.

Nguyễn Đình Thiêm (Theo “Xinhuanet.com”)

Nguồn tin: cand.com.vn