Trạm tín hiệu mật miền Đông nước Mỹ


Trạm thu thập tin tuyệt mật

Địa điểm bí ẩn này vốn dĩ được phát triển lần đầu tiên bởi Phòng thí nghiệm nghiên cứu Hải quân Hoa Kỳ (NRL) vào thời kỳ đầu thập niên 1960 như là nơi đặt một viễn vọng kính vô tuyến (180m) chuyên thu thập tin tức tình báo về radar của Liên Xô và các loại tín hiệu vô tuyến phản chiếu từ mặt trăng cũng như thu thập dữ liệu vô tuyến thiên văn trong không gian vũ trụ, nhưng dự án đã bị treo từ năm 1962 trước khi công trình xây dựng viễn vọng kính được hoàn tất. Trạm này sau đó được phát triển thành một trạm thu nhận sóng vô tuyến.

Vào ngày 10 tháng 5 năm 1969, trạm được kích hoạt dưới cái tên “Trạm vô tuyến hải quân Sugar Grove” và 2 mảng antena xử lý tuần hoàn Wullenweber (CDAAs) đã được lắp đặt hoàn tất vào ngày 8 tháng 11 năm 1969. Trong những năm sau đó, nhiều antena, chảo, mái vòm và các cơ sở khác đã được xây dựng.

Một góc bên trong trung tâm làm việc ngầm của Trạm tình báo tín hiệu Sugar Grove. Ảnh nguồn: Navy Radio Page

Một số viễn vọng kính vô tuyến quan trọng được lắp đặt tại Sugar Grove có thể kể đến là chảo antena 18m (thuộc loại viễn vọng kính lâu đời nhất ở đây), chảo antena 32m có bộ thu ống dẫn sóng đặc biệt, và chảo antena 46m (viễn vọng kính lớn nhất của trạm). Mặc dù CDAAs đã bị vô hiệu hóa từ thập niên 1990, nhưng địa điểm này vẫn tiếp tục hoạt động dù không công khai, và những bức ảnh chụp từ giữa năm 2000 và 2004 đã cho thấy công trình kỳ vỹ ở đó.

Thực ra Sugar Grove là một phần của mạng lưới truyền thông khổng lồ ECHELON từng hoạt động ở Mỹ và các đồng minh của nó có nhiệm vụ can thiệp và xử lý viễn thông điện tử. Mạng lưới này hoạt động tại nhiều nơi trên thế giới bao gồm thung lũng Waihopai (New Zealand), đồi Menwith (Vương quốc Anh) và Yakima (Washington).

Sugar Grove nằm chính thức tại một nơi được gọi là Vùng yên tĩnh vô tuyến quốc gia (NRQZ) bao phủ một diện tích lên đến 34.000km2 ở Tây Virginia và Virginia. NRQZ do Quốc hội Mỹ thành lập vào năm 1958 nhằm trao thêm sức mạnh cho Đài quan sát thiên văn vô tuyến quốc gia nằm cách đó 48km ở Green Bank (quận Pocahontas, Tây Virginia). Nằm ở hướng Nam trạm Sugar Grove khoảng vài dặm có một cộng đồng dân cư nhỏ.

Chứng minh sự tồn tại của cấu trúc mật

Tháng 6 năm 1959, Phòng thí nghiệm nghiên cứu hải quân (NRL) ở Washington, D.C đã loan báo rằng họ đang mong ngày hoàn tất một viễn vọng kính vô tuyến “mạnh đến nỗi có thể nhìn thấu các rìa của vũ trụ”. Theo đó một cột antena hình chảo kích thước 180m sẽ được dựng lên trong lòng chảo thung lũng núi nằm gần Sugar Grove (Tây Virginia) nơi có một thôn xóm nhỏ chỉ có đúng 21 cư dân.

Lắp đặt 2 chảo antena thu sóng vô tuyến Wullenweber. Ảnh nguồn: Navy Radio Page

Tuy nhiên tới tháng 12 năm 1959, có nguồn tin rò rỉ cho hay rằng “Điểm nghe đặc biệt ở Tây Virginia có lẽ sẽ đi vào hoạt động vào đầu năm 1960. Lúc đầu, một chảo kích thước 25,9m sẽ được sử dụng. Viễn vọng kính vô tuyến Tây Virginia của Hải quân Mỹ tiêu tốn ngân sách tới 79 triệu USD. Các đĩa phản xạ và antena nặng tới 2 vạn tấn, chúng được cố định trên một bánh xe có thể quay một góc 180 độ, vì thế tấm gương phản xạ có thể nhìn thấy bất kỳ hướng nào giữa chân trời. Đây là sự khởi đầu của Hải quân Mỹ tại Sugar Grove và tiếp diễn đến tận ngày nay.

Ngày 10 tháng 5 năm 1969, Trạm vô tuyến hải quân Sugar Grove (gọi tắt là Trạm) được kích hoạt. Trạm bị đình lại hoạt động trong năm 1962 do bởi những tiến bộ và cải tiến trong các lĩnh vực công nghệ và khoa học liên quan đã khiến dự án bị cho là lạc hậu trước khi nó hoàn thành. Tới tháng 3 năm 1965, dự án bắt đầu chuyển đổi trạm thành một trạm thu sóng vô tuyến. Trạm nằm trong Vùng yên tĩnh vô tuyến quốc gia (NRQZ), nơi tương đối không bị gây nhiễu loạn từ các yếu tố điện tử ở bên ngoài. Trong khu vực của Trạm có một tòa nhà hoạt động cao 2 tầng có diện tích 5574m2, nằm hoàn toàn trong lòng đất, nơi có 70 máy thu vô tuyến và nhiều thiết bị liên lạc khác. Khoảng 100 quân nhân nhập ngũ cùng 30 sĩ quan khác được bổ nhiệm làm việc tại Trạm.

Ngày 30 tháng 12 năm 1969, Chỉ huy tác chiến thông tin hải quân Mỹ (Navradsta) đã đi vào hoạt động đầu tiên ở Sugar Grove. Navradsta Sugar Grove (NSS) trở thành địa điểm quan trọng đón tần số cao ở duyên hải Đông Hoa Kỳ cho lưu lượng tàu hoạt động gần bờ và nước ngoài khi nó thay thế cho địa điểm thu vô tuyến cũ ở Cheltenham (Maryland).

Trạm bị đóng cửa trong thập niên 1990 khi Hải quân đã lâu không còn sử dụng vô tuyến tần số cao làm phương pháp chính để phân bổ lưu lượng nữa, cũng như các mảng antena xử lý tuần hoàn Wullenweber (CDAAs) khi đó bị loại bỏ. Ngày 1 tháng 12 năm 1969, Nhóm biệt đội an ninh hải quân Sugar Grove đã được thành lập, và nó trở thành Hoạt động nhóm an ninh hải quân khi Trạm đóng cửa và tiếp tục cho đến tận ngày nay.

Quả thú vị khi biết rằng nằm cách Sugar Grove khoảng 60 dặm có một trạm vô tuyến đặt tại Etam (Tây Virginia) một nơi mà hơn nửa lưu lượng thông tin liên lạc vệ tinh thương mại quốc tế đều đặn đến và rời Hoa Kỳ mỗi ngày. Đài quan sát thiên văn vô tuyến quốc gia (NRAO), đơn vị điều hành Viễn vọng kính Robert C. Byrd tại Green Bank (Tây Virginia), đó là antena khẩu độ đơn tự điều chỉnh lớn nhất thế giới với kích thước 100x110m, nó nằm cách Trạm khoảng 30 dặm về hướng Tây – Tây Nam.

NRQZ được thành lập bởi Ủy ban truyền thông liên bang Hoa Kỳ (FCC) vào ngày 9 tháng 11 năm 1958 và được phê chuẩn bởi Ủy ban cố vấn vô tuyến liên bộ (IRAC) vào ngày 26 tháng 3 năm 1958 nhằm giảm thiểu tối đa nhiễu sóng có hại cho Đài quan sát thiên văn vô tuyến quốc gia ở Green Bank (Tây Virginia) và các cơ sở thu sóng vô tuyến cho Hải quân Mỹ ở Trạm.

Nguồn tin chỉ huy tác chiến của hải quân Mỹ

Mục đích hoạt động của Bộ chỉ huy tác chiến thông tin hải quân (NIOC) ở Trạm Sugar Grove là để thực hiện nghiên cứu và phát triển thông tin liên lạc cho Hải quân, Bộ Quốc phòng và nhiều thực thể khác trong chính phủ Mỹ. Sự hiện diện của Hải quân ở Sugar Grove được bắt đầu từ năm 1955 khi địa điểm hiện tại của NIOC được lựa chọn cho dự án (NRL) đã dẫn tới công tác xây dựng một antena parabol kích thước lớn cho nghiên cứu truyền thông tiến bộ.

Công trường xây dựng viễn vọng kính vô tuyến khổng lồ ở Sugar Grove. Ảnh nguồn: Navy History

Trạm được lựa chọn vì được đánh giá là một địa điểm hoàn hảo cho dự án vì được núi non thiên nhiên che chắn và tiếng ồn nhân tạo cực kỳ thấp. Buổi ban đầu như ở trên đã đề cập, Trạm được xây dựng như một viễn vọng kính vô tuyến nhằm thăm dò không gian ngoài vũ trụ, và điều chỉnh các tín hiệu vô tuyến cách Trái đất tới 38 tỷ năm ánh sáng. Dù dự án bị đình lại ngay từ năm 1962 nhưng cái chảo antena kích thước 18m vẫn còn hoạt động tới tận ngày nay. Nó được gọi là chảo 1-10 vì có kích thước chỉ bằng 1/10 so với chảo antena lớn đã hoàn tất với kích thước tới 182m.

Chi phí ban đầu cho Trạm là khoảng 11 triệu USD. Theo một ấn bản đề ngày 4 tháng 3 năm 1968 của Biên bản quốc hội thì nhiệm vụ của Trạm sẽ là nơi thu chính cho các liên lạc truyền thông vô tuyến hải quân toàn cầu đi thẳng vào khu vực Washington, D.C.

Cũng vào năm 1968, tại Trạm đã hoàn tất một chảo antena parabol kích thước 45,7m mà ngày nay là cái chảo lớn nhất vẫn đang hoạt động. Xa hơn, Nhóm an ninh hải quân (NSG) đã thiết lập một biệt đội chuyên trách tại Trạm trong cùng năm. Trạm chính thức đi vào hoạt động từ ngày 10 tháng 5 năm 1969, và Trung úy chỉ huy F.M. Tettlebach được bổ nhiệm làm sĩ quan phụ trách đầu tiên của Trạm mới.

Các viên chức hải quân cư trú tại Cheltenham (Maryland) cho đến khi địa điểm hỗ trợ được hoàn thành. Trạm vô tuyến hải quân Sugar Grove còn được ví von là “Cái tai của Hải quân Mỹ” chuyên thu thập thông tin liên lạc từ máy bay, tàu bè cùng các trạm vô tuyến khác trên toàn thế giới. Hai hệ thống chảo antena khổng lồ Wullenweber (mỗi cái có đường kính lên tới 304m) từng được sử dụng làm công cụ thu sóng vô tuyến chính của Trạm.

Năm 1973, hoạt động kiểm soát hành chính của Trạm được chuyển giao cho Trạm thông tin liên lạc hải quân ở Norfolk. Khi đó Trạm trở thành một bộ phận của Trạm tổng liên lạc hải quân Đại Tây Dương ở Norfolk (NCAMSA) và đồng thời doanh trại của Sĩ quan phụ trách được nâng cấp thành Quyền sĩ quan chỉ huy.

Công trình trạm được trao tặng bằng khen đơn vị xuất sắc vào tháng 4 năm 1974 vì sự hỗ trợ ngoạn mục cho các nỗ lực tình báo quốc gia. Hai năm sau đó, một chảo antena đường kính 18m được chuyển tới tòa nhà điều hành của Nhóm an ninh hải quân.

Một năm sau đó các cơ sở chưa được sử dụng nằm ở tầng thấp của Tòa nhà ngầm (UGB) đã trở thành không gian nhà ở cho các nhóm điều hành, hậu cần, bảo trì, quản trị hành chính và thông tin liên lạc của Biệt đội nhóm an ninh hải quân. Vào năm 1984, dự án TIMBERLINE II đã cung cấp thêm các cơ hội bổ sung cho những hệ thống từ xa của cấu trúc UGB tròn 30 tuổi, đồng thời cung cấp những nâng cấp cần thiết cho những hệ thống điều hòa không khí và điện khẩn cấp.

Tòa nhà hoạt động cũ của Trạm có tên gọi là Trung tâm hoạt động Linn (LOC) giờ đây là ngôi nhà cho các văn phòng đào tạo và cung ứng. LOC dành để tưởng nhớ đến Trưởng kỹ thuật thông tin liên lạc Raymond E. Linn, người đã hiến dâng cả đời mình cho nền quốc phòng quốc gia trên con tàu nghiên cứu kỹ thuật USS Liberty bị tai nạn trong vùng biển Địa Trung Hải ở ngoài khơi duyên hải Israel vào ngày 8 tháng 6 năm 1967. Vì cơ chế tự động trong thông tin liên lạc hải quân nên vào năm 1992, sứ mạng của Trạm đã hợp nhất với một địa điểm khác.

Ngày 1 tháng 10 năm 1992, Trạm chính thức đóng cửa và Hoạt động nhóm an ninh hải quân được thành lập. Nhưng đến ngày 29 tháng 12 năm 2005, Chỉ huy hoạt động nhóm an ninh hải quân cũng bị giải thể vì cùng lý do. Chỉ huy tác chiến thông tin tình báo (NIOC) Sugar Grove được thành lập như là một phần của tích hợp các chức năng Nhóm an ninh hải quân thành Bộ chỉ huy chiến tranh mạng lưới hải quân (NetWarCom).

Kể từ đó ban giám đốc hoạt động thông tin (IOD) chịu trách nhiệm cho các dịch vụ mã hóa của Nhóm an ninh hải quân. Theo một báo cáo của nghị viện Châu Âu có từ năm 2001 về sự tồn tại của hệ thống đánh chặn thông tin liên lạc toàn cầu ECHELON thì khu phức hợp Trạm Sugar Grove có khả năng đánh chặn thông tin liên lạc từ các mạng lưới thông tin liên lạc vệ tinh như Intelsat 805 và 709, Express 2, Inmarsat khu vực Đại Tây Dương, Sabena Seca (Puerto Rico), Morwenstow (Anh) và Menwith Hill (Anh).

Phan Bình (Tổng hợp)

Nguồn tin: cand.com.vn