Về "Làng đỏ" Trung Mầu


Một con đê làng như bao con đê làng khác nhưng với tôi là cả niềm háo hức. Đê sông Đuống đoạn chảy qua Trung Mầu vẫn còn giữ nguyên được "hình hài của một con đê quê" nhờ đoạn chảy qua đây chợt uốn khúc tạo nên vẻ thơ mộng và đầm ấm.

Chỉ tay về phía bãi sông, Đới Đăng Minh có ý nhắc tôi trông về phía đó. Tôi ngước trông theo, ngoài bãi sông là một màu xanh mướt của chuối, thấp thoáng những bóng người lúi cúi, đi đi lại lại, chốc chốc lại thấy một chiếc xe bán tải chạy vào rồi chạy ra. Tầm này đương xuân nên không khí có vẻ nhiều phấn khởi.

Đới Đăng Minh cho biết: "Bên cạnh cây chuối "chủ lực" thì hiện giờ ở Trung Mầu còn có trồng cây cảnh, nhất là cây hoa giấy. Hoa giấy đang được nhiều người tới tìm mua chú ạ". Nhìn về trong làng, những mái nhà ngói đỏ cao ba bốn tầng như vút lên giữa cánh đồng lúa lên xanh mát. "Thật yên bình và phát triển", tôi thốt lên khi không giấu được cảm xúc. Đới Đăng Minh cũng tươi ánh mắt. Tôi biết trong tâm trí chàng trai đã tốt nghiệp Khóa Quân sự địa phương sau ba năm theo học của Trường Sĩ quan lục quân 1 này là cả tự hào.

Tấm bằng Có công với nước được trao cho nhân dân làng Trung Mầu

Bề dày lịch sử

Nằm bên bờ tả sông Đuống và cách trung tâm Hà Nội chừng 20 cây số đường đất, xã Trung Mầu (huyện Gia Lâm, Hà Nội) xưa vốn là vùng đất cổ, người Việt đã đến đây khai phá và định cư rất lâu đời. Dựa vào kết quả nghiên cứu khảo cổ học thì các di tích tìm thấy được trong một số ngôi mộ cổ ở Trung Mầu như Ngôi một cổ vườn Rú đã phát hiện các di chỉ bao gồm: Vò gốm, tiền đồng, bát đĩa đồng, dáo mác đồng…

Đặc biệt còn tìm thấy cả trống đồng loại 1, rìu đồng lưỡi xén, chậu đồng, thạp đồng… có khắc hoa văn hình người trai đóng khố gái mặc váy ngắn, hình chó săn, mũ lông chim. Tất cả đều có niên đại từ thế kỷ đầu đến thế kỷ thứ năm trước Công nguyên. Điều đó chứng minh "Ở Trung Mầu đã hình thành quần cư Việt cổ".

Theo cuốn sách "Lịch sử các làng ở Hà Nội" thì làng Trung Mầu xưa có tên là nôm là làng Miêu. Làng Miêu hồi đó đã thờ Lý Quốc Sư tại chùa Đô. Vì có công với Triều đình nên vị sư trụ trì Chùa Đô đã được Vua đưa về tưởng niệm tại đền thờ ở phố Lý Quốc Sư sau khi ngài qua đời.

Chùa Đô lịch sử.

Tôi hỏi đùa Đới Đăng Minh: "Làng mình bên sông lại xa Kinh thành, chắc việc học của người xưa hơi khó?". Đới Đăng Minh cười hồn nhiên: "Vâng chú, nhưng không phải là không có ai chú ạ". Thật ra khi chúng tôi đứng bên khu Bia Từ Chỉ, ở đó có một tấm bia được tạo từ năm 1692, trên bia có ghi nội dung là ca ngợi nhân đức của ông Nguyễn Công Chiêm cùng phu nhân của mình, ông Chiêm đỗ Tiến sĩ và được bổ làm quan Thị nội giám trong triều và chính ông là người giúp dân Trung Mầu có được 11 ngàn quan và 17 mẫu ruộng.

Vào thời xưa ấy, đất đai ven sông có được là bao nên được số tiền và đất ruộng như vậy đối với người dân Trung Mầu xưa thực vô cùng quý giá. Biết ơn Tiến sĩ Nguyễn Công Chiêm, dân làng đã dựng tấm bia để ghi nhớ. Bài văn bia Từ Chỉ do chính Thám hoa Vũ Thành, người làng soạn ra, bia có đoạn: "Trung Mầu anh cả/ Hàng xã thứ hai/ Dũng Vi chi ngoài/ Kin Đường Hán Lạc…Sáu xã quý nhau/ Thuận hòa chi quý".

Tôi còn được biết, làng Trung Mầu xưa có một đình, một nghè và hai chùa (chùa Đô và chùa Mới). Với một làng quê xa xưa như vậy mà có được những thứ đó đã chứng tỏ đất này là đất có văn và có võ. Theo sắc phong còn để lại thì làng Trung Mầu và làng Thịnh Liên (nay đều cùng xã Trung Mầu) có thờ 3 vị tướng thời nhà Đinh là: Cao Chương Đại Vương, Cao Gia Đại Vương và Tòng Chinh Đại Vương, cả ba vị tướng này đều có công đánh giặc giữ nước.

Như lời của chàng trai trẻ Đới Đăng Minh, thì từ lâu ở Trung Mầu đã xuất hiện một vài gánh hát "nông dân", họ thường tụ nhau để hát Tuồng môn nghệ thuật cổ truyền đặc sắc vào các dịp làng có hội. Tôi nghe đến đây thì gật gù: "Người nông dân ta xưa thật biết cách tự làm vui cho mình".

Truyền thống vẻ vang

Hướng dẫn tôi tham quan Phòng truyền thống, cô Nguyễn Thị Thanh Hà, cán bộ văn hóa kiêm phụ trách Phòng truyền thống xã Trung Mầu (huyện Gia Lâm, Hà Nội), không giấu được niềm tự hào khi tôi thật tình nói: "Có lẽ đây là địa phương cấp xã có Phòng truyền thống cỡ như một bảo tàng vậy". Và để củng cố thêm cho nhìn nhận của tôi, cô Thanh Hà dẫn tôi tới trước tấm bằng "Có công với nước" do Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Phạm Văn Đồng ký năm 1977.

Điều đáng nói ở tấm bằng này là dòng chữ "Nhân dân làng Trung Mầu". Cô Thanh Hà nói thêm: "Theo cháu được biết thì Bằng có công với nước tặng cho cá nhân hay cho một gia đình thì cũng có nhiều, như xã cháu đấy có tới 18 gia đình nhưng tặng cho cả một làng thì hơi hiếm phải không chú?".

Khu vực có tấm Bia Từ Chỉ

Tuy nằm bên sông Đuống và giáp ranh với nhiều huyện tỉnh bạn nhưng từ đầu những năm 40 của thế kỷ 20, làng Trung Mầu đã là nơi đi về của các đồng chí cán bộ hoạt động bí mật. Các đồng chí trong Xứ ủy Bắc kỳ như: Hoàng Quốc Việt, Văn Tiến Dũng, Lê Quang Đạo, Đặng Kim Giang, Nguyễn Văn Trân, Nguyễn Khang, Bùi Quang Tạo… và cả Tổng bí thư Trường Chinh cũng đã về Trung Mầu chỉ đạo phong trào. Ngôi nhà của cụ Nguyễn Xuân Lộc là một trong những địa điểm để các đồng chí trong Xứ ủy tiến hành họp và tổ chức những lớp học về Chủ nghĩa Mác - Lê nin.

Xã Trung Mầu hôm nay

Tháng 6 năm 1944, chi bộ Đảng đã được thành lập trên đất Trung Mầu, đảng viên là những người con kiên trung của làng, nhờ đó mà phong trào lên rất mạnh. Hay như ngôi nhà của cụ Nguyễn Xuân Ca, nay do người con cả là Nguyễn Xuân Tôn trông coi, là nơi Xứ ủy đặt cơ sở in tài liệu. Hôm tôi tới nhà, ông Tôn mệt nên vợ ông ra đón tiếp. Một căn nhà ba gian một trái đã hơn trăm tuổi vẫn được gia đình bảo tồn và gắng giữ.

Nói gắng giữ vì theo thời gian nên ngôi nhà đã xuống cấp nhưng gia đình vẫn giữ, giữ nguyên như hồi trước cách mạng. Gia đình ông Tôn chỉ giữ chứ không ở, họ ở căn nhà đối diện, ngày ngày mở cửa, quét dọn và đón khách tới thăm mỗi khi có dịp. Bà vợ ông Tôn rất tự hào khi nói với tôi lúc tiễn tôi ra cổng: "Trong vườn nhà dưới bụi tre vẫn còn căn hầm bí mật", rồi bà khoe: "Vợ chồng tôi cùng trai gái dâu rể đều là đảng viên".

Từ Trung Mầu nếu theo đường "chiến lược" thì có thể đi các nơi khác như tới Hà Đông (Xứ ủy Bắc kỳ đã nhóm họp ở đó và bàn Khởi nghĩa ở Hà Nội tháng 8 năm 1945) hay tới "An toàn khu" của Trung ương ở Chiến khu Việt Bắc một cách dễ dàng. Nếu men theo sông Đuống thì rất thuận lợi tới các địa phương ở Hải Dương, Hưng Yên để phát triển tổ chức Việt Minh.

Chính bởi có những thuận lợi đó và nhất là được sự lãnh đạo sâu sát của các đồng chí trong Xứ ủy Bắc kỳ mà Chi bộ Đảng làng Trung Mầu đã chủ trương tập trung mọi khả năng để lãnh đạo nhân dân trong làng và các làng xung quanh nổi dậy chớp thời cơ giành chính quyền về tay nhân dân.

Cuộc nổi dậy bắt đầu từ mờ sáng ngày 11 tháng 3 năm 1945. Từ Chùa Mới, một cuộc mít tinh nhân dân được tiến hành với sự tham gia của rất đông nhân dân do chi bộ Đảng lãnh đạo. Sau khi cuộc mít tinh kết thúc, đoàn người biến thành đoàn biểu tình thị uy đi qua các xóm thôn rồi trở lại Chùa Mới. Tại đây chính quyền nhân dân đã được thành lập. Một cuộc khởi nghĩa giành chính quyền được diễn ra mau lẹ, kịp thời, đông đảo, đồng lòng và không một tiếng súng. Đó là cuộc "khởi nghĩa" giành chính quyền sớm nhất cả nước.

Tiếng vang từ Trung Mầu đã làm nức lòng nhân dân các nơi và nói như cô Thanh Hà đã thuyết minh khi chúng tôi thăm Nhà Truyền thống, cô nói: "Cuộc khởi nghĩa đã được các đồng chí Xứ ủy đánh giá rất cao, là bài học cho các làng xã khác. Được các đồng chí trong Xứ ủy khích lệ bởi nó đã làm chấn động khắp các xã huyện xung quanh như Tiên Du, Thuận Thành và Gia Lâm".

Tác giả trong Phòng Truyền thống xã Trung Mầu

Với đà thắng lợi đó, nhân dân Trung Mầu đã nhanh chóng khôi phục lại các lò võ vốn có của làng để tổ chức tập luyện cho các nhân tố tích cực với 82 người tổ chức thành hai trung đội (Khi Kháng chiến toàn quốc nổ ra, 2 trung đội này đã gia nhập Vệ quốc đoàn). Đồng thời cho "đốt" lại các lò rèn rồi mời các nghệ nhân giỏi về làng rèn dao, kiếm, mã tấu, dáo mác... chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa ngày 19 tháng 8 năm 1945 ở Thủ đô Hà Nội.

***

Nắng xuân hây hẩy, gió xuân hôi hổi, con đê làng uốn cong như một vành khăn ấm. Cả Đới Đăng Minh và Nguyễn Thị Thanh Hà đều lâng lâng ánh mắt. Tôi biết "Thế hệ trẻ Trung Mầu hôm nay chẳng những khắc ghi truyền thống quê hương mà chính họ đang cùng mọi người xây dựng một Trung Mầu - "Làng Đỏ" ngày thêm vững tin theo Đảng".

Nguyễn Trọng Văn

Nguồn tin: cand.com.vn