Đảng bộ tỉnh Điện Biên - 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành

14/10/2024

Description: Trang chủ::..Đảng bộ tỉnh Điện Biên::..

Đoàn đại biểu Tiểu ban văn kiện Đại hội XIV làm việc với BTV Tỉnh uỷ Điện Biên.

75 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, Nhân dân các dân tộc Điện Biên luôn phát huy truyền thống Điện Biên Phủ anh hùng, dũng cảm trong chiến đấu, chuyên cần trong lao động sản xuất, vượt qua khó khăn, thử thách và giành được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Đảng bộ tỉnh Điện Biên đã đi một chặng đường dài 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành được thể hiện qua các giai đoạn cách mạng quan trọng sau:

1. Giai đoạn 1949 - 1954

Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo Nhân dân các dân tộc tiến hành cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, giải phóng Lai Châu.

Tháng 01/1950 Trung ương Đảng quyết định mở chiến dịch Tây Bắc (lấy tên chiến dịch Lê Hồng Phong I). Ở Lai Châu ta đã tổ chức một số trận đánh, do chưa tổ chức tốt việc phối hợp giữa bộ đội và dân quân du kích dẫn đến thất bại.

Trước tình hình đó, Ban cán sự Đảng Lai Châu đã chỉ đạo các tổ, đội công tác động viên nhân dân xây dựng lại căn cứ cách mạng đồng thời chỉ đạo và xây dựng các đoàn thể quần chúng như: Thanh niên cứu quốc, Phụ nữ cứu quốc, Nông dân cứu quốc...

Chiến dịch Tây Bắc (tháng 10/1952) kết thúc thắng lợi, Ban cán sự Đảng Lai Châu lãnh đạo nhân dân vùng giải phóng khẩn trương khai hoang phục hóa, phát triển sản xuất, ổn định đời sống, đồng thời tích cực xây dựng các đoàn thể quần chúng, tăng cường công tác xây dựng Đảng, chính quyền, lực lượng vũ trang, bán vũ trang để chuẩn bị cho việc giải phóng Lai Châu.

Khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta đang trên đà thắng lợi. Thực dân Pháp cho quân nhảy dù chiếm lại Điện Biên Phủ (20/11/1953) và xây dựng tại đây một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh nhất Đông Dương. Theo quyết định của Bộ Chính trị và kế hoạch "Chuẩn bị chiến trường" của Bộ Tư lệnh Quân khu Tây Bắc, Ban cán sự Đảng Lai Châu đã cử đoàn công tác xuống các địa phương, vận động nhân dân chuẩn bị về mặt tinh thần, ý chí cũng như lương thực, thực phẩm để đón bộ đội chủ lực vào giải phóng Lai Châu. Nhờ làm tốt công tác chuẩn bị nên khi ta mở chiến dịch và giải phóng Điện Biên, Đảng bộ, lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã có những đóng góp to lớn cho thắng lợi chung của cả dân tộc. Chiến dịch Điện Biên Phủ toàn thắng, Ban cán sự Đảng Lai Châu lại tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương phối hợp với lực lượng vũ trang diệt phỉ trừ gian. Sau 4 tháng tiêu diệt tàn phỉ, Lai Châu đã hoàn toàn giải phóng. Ngoài việc tiễu phỉ, Ban cán sự Đảng Lai Châu còn chú trọng đến việc lãnh đạo nhân dân tăng gia sản xuất, khắc phục nạn đói giáp hạt và củng cố Đảng, chính quyền, các đoàn thể và lực lượng vũ trang trong tỉnh.

5 năm kể từ ngày thành lập, Ban cán sự Đảng Lai Châu ngày càng trưởng thành và lớn mạnh. Từ 20 đảng viên ban đầu, đến tháng 12/1954 đã có 212 đảng viên.

2. Giai đoạn 1955 - 1965

Đảng bộ lãnh đạo sự nghiệp khôi phục kinh tế, thu dọn chiến trường, khắc phục hậu quả chiến tranh, ổn định đời sống Nhân dân, bước đầu xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Khôi phục kinh tế: Tập trung vào phát triển nông nghiệp nhất là sản xuất lương thực; đẩy mạnh phong trào hợp tác hóa nông nghiệp, xây dựng và phát triển cơ sở vật chất cho nông nghiệp. Năm 1963 toàn tỉnh có 645 hợp tác xã, với 13.466 hộ, chiếm 59,9% số hộ toàn tỉnh. Trong đó, vùng thấp 457 hợp tác xã, vùng cao 188 hợp tác xã. Công tác y tế, văn hóa, giáo dục cũng được quan tâm như xóa mù chữ, mở trường học cho con em nhân dân các dân tộc. Năm học 1963-1964 tổng số học sinh phổ thông toàn tỉnh là 6.182 em.

Công tác xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể được gắn chặt với phong trào phát triển sản xuất, xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa. Tiến hành thành lập lại tỉnh Lai Châu và Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ nhất vào năm 1963.

3. Giai đoạn 1966 - 1975

Đảng bộ lãnh đạo Nhân dân vừa sản xuất, vừa chiến đấu, chi viện cho cách mạng miền Nam, thực hiện nghĩa vụ quốc tế đối với cách mạng Lào.

Về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội đạt được những thành tựu to lớn:

Quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa được thiết lập, củng cố, kiên trì xây dựng hợp tác xã ở vùng thấp, phát triển nông trường quốc doanh... Tổng sản lượng lương thực năm 1975 đạt 102.860 tấn, có 13 xí nghiệp quốc doanh, giá trị sản lượng công nghiệp tăng 88,1%; giao thông vận tải phát triển nhanh năm 1973 tăng gấp 4 lần so với trước chiến tranh; các huyện: Điện Biên, Tuần Giáo, Phong Thô đã có trường cấp III. Năm học 1974-1975 số học sinh phổ thông là 25.207 em. Hầu hết các xã có trạm y tế; văn hóa báo chí được phát triển phục vụ nhiệm vụ chính trị của tỉnh, đời sống Nhân dân được cải thiện.

Nhân dân các dân tộc trong tỉnh đã làm tròn nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam chiến đấu chống Mỹ và tay sai, giúp đỡ cho cách mạng Lào, sẵn sàng chiến đấu, huy động con em lên đường chiến đầu, là hậu phương cho nước bạn Lào chiến đấu chống lại chiến tranh phá hoại bằng không quân của để quốc Mỹ, chống lại các hoạt động gián điệp, biệt kích, các lực lượng phản động, giữ vững an ninh trật tự trên địa bàn tỉnh.

Đảng bộ tiến hành 2 kỳ đại hội Đảng: Đại hội lần thứ II (từ ngày 28/3 đến 5/4/1970) và lần thứ III (từ ngày 26/4 đến ngày 1/5/1975).

4. Giai đoạn 1976 - 1985

Đáng bộ và Nhân dân Lai Châu cùng cả nước đi lên CNXH thu được nhiều thắng lợi.

Về phát triển kinh tế: Tổng sản lượng lương thực năm 1985 đạt 138.712 tấn (tăng 61,15% so với năm 1975); công nghiệp năm 1985 đạt 9.990 triệu đồng (tăng 44%), đã có một số cơ sở sản xuất mặt hàng mới như: sành, sứ, gạch men...

Văn hóa - xã hội: Được đẩy mạnh, phong trào học phổ thông, bổ túc văn hoá, nông nghiệp, kỹ thuật có bước chuyển biến khá. Năm 1985 có 49.745 học sinh (tăng gấp 2 lần so với năm 1975) số học sinh là người dân tộc ít người hằng năm đều tăng, chất lượng học tập được nâng lên. Công tác y tế được đảm bảo, số y, bác sỹ ngày một tăng. Năm 1985 có 76 bác sĩ, 496 y sĩ, và 1.493 giường bệnh; hoạt động văn hóa, văn nghệ, thông tin đại chúng có bước phát triển, đã tạo được phong trào văn hóa văn nghệ ở các trường học, khu vực thị xã, thị trấn, nông thôn vùng thấp.

Đảng bộ và Nhân dân đã huy động sức người sức của, chiến đấu anh dũng bảo vệ vững chắc biên giới Tổ quốc, đồng thời tiếp tục củng cố quốc phòng, xây dựng, bảo vệ tuyến biên giới vững chắc.

Đảng bộ tiến hành 3 kỳ đại hội Đảng: Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV (từ ngày 07-12/3/1977); Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ V (từ ngày 27-29/10/1980); Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VI (từ ngày 20-24/01/1983).

5. Giai đoạn 1986 - 2003

Đảng bộ lãnh đạo tiến hành công cuộc đổi mới vì mục tiêu "Dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh".

Về kinh tế: Sản lượng lương thực năm 1986 đạt 136.645 tấn đến năm 2000 là 190.000 tấn. Lai Châu đã tự giải quyết được vấn đề lương thực. Giá trị tổng sản lượng công nghiệp năm 1986 là 7.596 triệu đồng, đến năm 2000 đạt 165 tỷ đồng.

Về văn hóa - xã hội: Trong giáo dục: đã duy trì được hệ thống trường lớp nhất là ở vùng thấp, thị xã, thị trấn. Đội ngũ giáo viên được đào tạo, bổ sung nâng cao chất lượng. Số học sinh các cấp luôn tăng. Năm 1986 có 52.373 học sinh. Năm học 1999-2000 tăng lên với 130.895 học sinh. Cơ sở vật chất và chính sách về sự nghiệp giáo dục được quan tâm. Trong lĩnh vực Y tế đã đầu tư xây dựng cơ sở vật chất mới cho 3 bệnh viện tuyến tỉnh, 10 trung tâm y tế huyện, thị với 1.000 giường bệnh, 100% xã, phường có trạm y tế, 22 phòng khám khu vực; toàn tỉnh có 1.200 bản có cán bộ y tế. Sự nghiệp văn hóa thông tin được duy trì và phát triển, tăng thêm nhiều cơ sở vật chất như: Nhà văn hóa, bãi chiếu phim...

Công tác An ninh quốc phòng và trật tự an toàn xã hội đã được thực hiện tốt. Công tác quân sự đã luôn đảm bảo sự lãnh đạo chặt chẽ của cấp ủy Đảng, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp. Phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, giữ gìn trật tự an toàn xã hội có tiến bộ, việc đấu tranh chống tội phạm được thực hiện tích cực, với sự tham gia, phối hợp của nhiều lực lượng và quần chúng nhân dân.

Công tác xây dựng Đảng: Tập trung vào nhiệm vụ xây dựng Đảng bộ vững mạnh trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng, tổ chức. Đảng bộ tỉnh ngày một lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng.

Đảng bộ tiến hành 4 kỳ đại hội Đảng: Đại hội lần thứ VII (từ ngày 08-14/10/1986), lần thứ VIII (từ ngày 23-27/9/1991), lần thứ IX (từ ngày 03 - 06/5/1996) và lần thứ X (từ ngày 02 - 05/01/2001). Đảng bộ tỉnh đã lãnh đạo thành công việc chia tách tỉnh Lai Châu (cũ) thành tỉnh Lai Châu và tỉnh Điện Biên. Hai tỉnh đã sớm củng cố, kiện toàn, chất lượng hoạt động được nâng lên. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chuyển biến rõ nét, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền vững mạnh toàn diện, góp phần tăng cường khối đoàn kết các dân tộc.

6. Giai đoạn 2004 đến nay

Những kết quả Đảng bộ và nhân dân các dân tộc Lai Châu (cũ) đạt được đã tạo cho tỉnh Điện Biên thế và lực mới, cùng cả nước vững bước trong sự nghiệp đổi mới của Đảng ở thế kỷ XXI.

Tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân, giai đoạn 2005-2010, đạt 11,6%/năm, thu nhập bình quân đầu người đạt 10,7 triệu đồng/năm (tương đương 563 USD/người/năm); giai đoạn 2010-2015, GRDP bình quân tăng 9,11%/năm, thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 23,6 triệu đồng (tương đương 1.130 USD), gấp 1,89 lần so với năm 2010; GRDP bình quân giai đoạn 2016-2020 đạt 6,83%/năm; tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân giai đoạn 2021-2023 đạt 9,33%/năm; GRDP bình quân đầu người năm GRDP bình quân đầu người năm 2023 đạt 48,6 triệu đồng/năm, tăng 1,46 lần so với năm 2020. Tăng trưởng GRDP 6 tháng đầu năm 2024 đạt 8,75%.

Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo đúng định hướng, cụ thể: Khu vực I chiếm 16,47%%; khu vực công nghiệp - xây dựng chiếm 17,79%; khu vực dịch vụ chiếm 58,11%; thuế sản phẩm trừ trợ cấp sản phẩm chiếm 4,09%.

Việc tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới thu được nhiều kết quả quan trọng. Đến nay, tỉnh đã hình thành một số vùng sản xuất tập trung theo hướng sản xuất hàng hóa, liên kết sản xuất trên các sản phẩm nông nghiệp chủ lực (lúa, gạo, chè, cà phê, mắc ca..) với trên 10.000 ha và 23 chuỗi cung ứng thực phẩm nông, lâm, thủy sản an toàn. Hiện nay, tỉnh Điện Biên có 72 sản phẩm OCOP. Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai thực hiện toàn diện, thực chất, có chiều sâu và đạt nhiều kết quả. 6 tháng đầu năm 2024, toàn tỉnh có 04 xã đạt chuẩn nông thôn mới nâng cao, 19 xã đạt chuẩn nông thôn mới và 28 xã đạt 15 - 18 tiêu chí; số tiêu chí bình quân đạt 14,12 tiêu chí/xã; 153 thôn, bản đạt chuẩn nông thôn mới và nông thôn mới kiểu mẫu.

Các mặt văn hóa - xã hội có nhiều tiến bộ, an sinh xã hội được quan tâm và triển khai có hiệu quả. Công tác xóa đói giảm nghèo được triển khai quyết liệt, tỷ lệ hộ nghèo giảm qua các năm, giảm từ 44% năm 2005 xuống còn 25,68% vào 6 tháng đầu năm 2024. Chất lượng cuộc sống của người dân được nâng lên rõ rệt.

Giáo dục đào tạo có chuyển biến cả về quy mô và chất lượng; trình độ dân trí của tỉnh đã có sự chuyển biến tích cực. Mạng lưới trường, lớp các cấp học tăng nhanh, được phủ kín tới khắp các bản làng xa xôi nhất của tỉnh. Huy động tối đa dân số trong độ tuổi ra lớp, giảm tỷ lệ học sinh bỏ học, tăng tỷ lệ học sinh đi học chuyên cần. Chất lượng giáo dục vùng dân tộc thiểu số, giáo dục toàn diện và kết quả thi tốt nghiệp THPT được nâng lên. Toàn tỉnh hiện có 484 cơ sở giáo dục đào tạo, với 223.860 học sinh, sinh viên. Tỷ lệ trường mầm non và phổ thông đạt chuẩn quốc gia đạt 77,54%. Tỷ lệ trường mầm non và phổ thông được công nhận trường đạt kiểm định chất lượng giáo dục đạt 74,08%. Toàn tỉnh có 343 trường mầm non và phổ thông được công nhận trường đạt kiểm định chất lượng giáo dục, 359 trường đạt chuẩn quốc gia, tăng 200 trường so với giai đoạn 2010 - 2015.

Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe Nhân dân có nhiều tiến bộ, hệ thống cơ sở y tế tiếp tục được đầu tư, đội ngũ cán bộ y tế được bổ sung, tăng cường: Toàn tỉnh hiện có 818 bác sĩ; đạt 12,66 bác sĩ/1 vạn dân; đạt 32,1 giường bệnh quốc lập/vạn dân. Tuổi thọ bình quân của người dân là 70,6 tuổi. Toàn ngành có 3.175 cán bộ y tế, trong đó có 01 Thầy thuốc Nhân dân, 38 Thầy thuốc ưu tú; 4 bệnh viện tuyến tỉnh với 830 giường bệnh; 4 trung tâm chuyên khoa và 1 Trường Cao đẳng Y tế. Tuyến huyện có 10 Trung tâm Y tế với 1.085 giường bệnh. Chất lượng khám chữa bệnh ở các tuyển không ngừng được nâng lên, nhiều kỹ thuật mới được cập nhật, qua đó đã cứu sống nhiều bệnh nhân nặng nguy kịch như suy đa tạng, sốc nhiễm trùng nhiễm độc, đa chấn thương, chần thương sọ não nặng....

Các hoạt động văn hóa, thể thao, du lịch, thông tin truyền thông có nhiều tiến bộ, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thông tin, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Công tác quân sự, quốc phòng được triển khai toàn diện, xây dựng củng cố thể trận quốc phòng toàn dân, thể trận an ninh nhân dân và biên phòng toàn dân, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và chủ quyền biên giới quốc gia. Lực lượng vũ trang tỉnh duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu; thực hiện tốt công tác tuyển quân, kế hoạch huấn luyện, luyện tập; chỉ đạo diễn tập khu vực phòng thủ xã, huyện, tỉnh đạt kết quả.

Quốc phòng - an ninh được bảo đảm, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, ổn định. Hoạt động đối ngoại tiếp tục được tăng cường: Tăng cường mở rộng quan hệ hữu nghị đặc biệt, hợp tác toàn diện với các tỉnh Bắc Lào; duy trì và mở rộng quan hệ với tỉnh Vân Nam - Trung Quốc; phát triển quan hệ với các tỉnh Đông Bắc Thái Lan; thiết lập và tăng cường, mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ.

Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị có chuyển biến tích cực cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Hệ thống chính trị từ tỉnh tới cơ sở được tỉnh Điện Biên tập trung xây dựng, củng cố, phát triển rộng khắp, chú trọng địa bàn khó khăn, vùng sâu, biên giới. Tổ chức cơ sở Đảng, đội ngũ đảng viên phát triển cả về số lượng và chất lượng. Từ một Ban Cán sự Đảng khi mới thành lập chỉ có 20 đảng viên (tháng 10/1949), đến nay, Đảng bộ tỉnh có 14 đảng bộ trực thuộc với 617 tổ chức cơ sở đảng, 2.845 chi bộ trực thuộc với trên 48.000 đảng viên. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cấp ủy, cán bộ đảng viên được nâng lên; phương thức lãnh đạo của đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị có bước đổi mới. Trong giai đoạn này, Đảng bộ tỉnh đã tiến hành 4 kỳ Đại hội lần thứ XI (từ 19-21/12/2005), lần thứ XII (từ 26-29/10/2010), lần thứ XIII (từ 13-15/10/2015), lần thứ XIV (từ 13-15/10/2020)./.

Tác Giả: ANĐB
Nguồn Tin: congan.dienbien.gov.vn
Tin tức
Thống kê truy cập
  • Đang truy cập: 171
  • Hôm nay: 421
  • Tháng hiện tại 2958
  • Tổng lượt truy cập: 228645
Liên kết website